Chuẩn mực kế toán Hướng dẫn áp dụng chuẩn mực kế toán số 18 (VAS 18)...

Hướng dẫn áp dụng chuẩn mực kế toán số 18 (VAS 18) – Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng

Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 18 – “Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng” được ban hành kèm theo Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC ngày 28/12/2005 của Bộ Tài chính, là một trong những chuẩn mực trọng yếu trong hệ thống VAS. Chuẩn mực này quy định các nguyên tắc ghi nhận, xác định giá trị và trình bày thông tin liên quan đến các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng của doanh nghiệp.

Dưới đây là phân tích và hướng dẫn chi tiết cách thực hiện Chuẩn mực kế toán số 18 (VAS 18), dựa trên nội dung văn bản gốc của Bộ Tài chính, giúp kế toán doanh nghiệp áp dụng đúng đắn, nhất quán trong thực tế.

1. Mục đích và phạm vi của VAS 18

Mục đích của VAS 18 là để quy định và hướng dẫn các nguyên tắc, phương pháp kế toán các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng, gồm:

  • Nguyên tắc ghi nhận.
  • Xác định giá trị.
  • Các khoản bồi hoàn.
  • Thay đổi các khoản dự phòng.
  • Sử dụng các khoản dự phòng.
  • Áp dụng nguyên tắc ghi nhận và xác định giá trị các khoản dự phòng làm cơ sở lập và trình bày báo cáo tài chính.

Về phạm vi áp dụng của chuẩn mực, VAS 18 áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp để kế toán các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng, ngoại trừ:

  • Các khoản mục phát sinh từ các hợp đồng thông thường, không kể các hợp đồng có rủi ro lớn.
  • Những khoản mục đã quy định trong các chuẩn mực kế toán khác.

Ngoài ra, chuẩn mực cũng nêu rõ các trường hợp không áp dụng VAS 18 khác như:

  • VAS 18 không áp dụng cho công cụ tài chính (kể cả bảo lãnh); nội dung này theo chuẩn mực về công cụ tài chính.
  • Nếu có chuẩn mực khác điều chỉnh loại dự phòng/tài sản/nợ tiềm tàng cụ thể thì áp dụng chuẩn mực đó. Ví dụ: VAS 11 (hợp nhất kinh doanh), VAS 15 (hợp đồng xây dựng), VAS 17 (thuế thu nhập), VAS 06 (thuê tài sản; trừ thuê hoạt động có rủi ro lớn thì theo VAS 18).
  • Một số dự phòng liên quan nguyên tắc ghi nhận doanh thu (ví dụ phí bảo hành) thì áp dụng nguyên tắc ghi nhận doanh thu theo VAS 14.

VAS 18 cũng áp dụng cho cho các khoản dự phòng đối với hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp (kể cả trường hợp ngừng hoạt động). Nếu việc tái cơ cấu phù hợp các định nghĩa về ngừng hoạt động thì phải trình bày bổ sung theo quy định của các chuẩn mực kế toán hiện hành.

downloadTải ngay File Word VAS 18

2. Các khái niệm quan trọng trong VAS 18

Để hướng dẫn chính xác kế toán các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng, VAS 18 đưa ra một hệ thống khái niệm chi tiết để giải thích các thuật ngữ quan trọng, tránh nhầm lẫn và thống nhất:

Thuật ngữ Khái niệm
Một khoản dự phòng Là khoản nợ phải trả không chắc chắn về giá trị hoặc thời gian.
Một khoản nợ phải trả Là nghĩa vụ nợ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các sự kiện đã qua và việc thanh toán khoản phải trả này dẫn đến sự giảm sút về lợi ích kinh tế của doanh nghiệp.
Sự kiện có tính chất bắt buộc Là sự kiện làm nảy sinh một nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ liên đới khiến cho doanh nghiệp không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện nghĩa vụ đó.
Nghĩa vụ pháp lý Là nghĩa vụ phát sinh từ:
a) Một hợp đồng;
b) Một văn bản pháp luật hiện hành.
Nghĩa vụ liên đới Là nghĩa vụ phát sinh từ các hoạt động của một doanh nghiệp khi thông qua các chính sách đã ban hành hoặc hồ sơ, tài liệu hiện tại có liên quan để chứng minh cho các đối tác khác biết rằng doanh nghiệp sẽ chấp nhận và thực hiện những nghĩa vụ cụ thể.
Nợ tiềm tàng Là:
a) Nghĩa vụ nợ có khả năng phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra và sự tồn tại của nghĩa vụ nợ này sẽ chỉ được xác nhận bởi khả năng hay xảy ra hoặc không hay xảy ra của một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được; hoặc
b) Nghĩa vụ nợ hiện tại phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra nhưng chưa được ghi nhận vì:
(i) Không chắc chắn có sự giảm sút về lợi ích kinh tế do việc phải thanh toán nghĩa vụ nợ; hoặc
(ii) Giá trị của nghĩa vụ nợ đó không được xác định một cách đáng tin cậy.
Tài sản tiềm tàng Là tài sản có khả năng phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra và sự tồn tại của tài sản này chỉ được xác nhận bởi khả năng hay xảy ra hoặc không hay xảy ra của một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được.
Hợp đồng có rủi ro lớn Là hợp đồng trong đó có những chi phí không thể tránh được buộc phải trả cho các nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vượt quá lợi ích kinh tế dự tính thu được từ hợp đồng đó.
Tái cơ cấu doanh nghiệp Là một chương trình do Ban Giám đốc lập kế hoạch, kiểm soát và có những thay đổi quan trọng về:
a) Phạm vi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; hoặc
b) Phương thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

3. Hướng dẫn các nội dung trong chuẩn mực kế toán số 18 (VAS 18)

3.1. Phân biệt các khoản dự phòng và các khoản nợ phải trả

Theo đoạn 08 chuẩn mực:

“Các khoản dự phòng có thể phân biệt được với các khoản nợ phải trả như: Các khoản nợ phải trả người bán, phải trả tiền vay,… là các khoản nợ phải trả được xác định gần như chắc chắn về giá trị và thời gian, còn các khoản dự phòng là các khoản nợ phải trả chưa chắc chắn về giá trị hoặc thời gian.”

Như vậy, doanh nghiệp có thể phân biệt khoản dự phòng và các khoản nợ phải trả đơn giản như sau:

  • Dự phòng là khoản nợ phải trả nhưng chưa chắc chắn về giá trị hoặc thời điểm.
  • Nợ phải trả là các khoản phải trả thông thường vốn đã xác định gần như chắc chắn.

3.2. Mối quan hệ giữa dự phòng và nợ tiềm tàng

Theo đoạn 09 của chuẩn mực:

“Tất cả các khoản dự phòng đều là nợ tiềm tàng vì chúng không được xác định chắc chắn về giá trị hoặc thời gian. Tuy nhiên, thuật ngữ ‘nợ tiềm tàng’ được dùng cho các khoản chưa được ghi nhận vì còn phụ thuộc vào các sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được.”

Như vậy, ta có thể hiểu mối quan hệ giữa dự phòng và nợ tiềm tảng như sau:

  • Dự phòng là một phần đặc biệt của nợ tiềm tàng, nhưng đã đủ điều kiện ghi nhận (do có nghĩa vụ hiện tại, khả năng chi trả và ước tính đáng tin cậy).
  • Còn nợ tiềm tàng thông thường chỉ là khả năng có thể phát sinh, chưa đủ điều kiện ghi nhận vì:
    • Chưa chắc chắn sự kiện sẽ xảy ra; hoặc
    • Chưa thể xác định giá trị đáng tin cậy; hoặc
    • Chưa hình thành nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán.

Đoạn 10 của chuẩn mực phân biệt rõ các khoản dự phòng với khoản nợ tiềm tàng như sau:

  • Các khoản dự phòng là các khoản đã được ghi nhận là các khoản nợ phải trả (giả định đưa ra một ước tính đáng tin cậy) vì nó là các nghĩa vụ về nợ phải trả hiện tại và chắc chắn sẽ làm giảm sút các lợi ích kinh tế để thanh toán các nghĩa vụ về khoản nợ phải trả đó.
  • Các khoản nợ tiềm tàng là các khoản không được ghi nhận là các khoản nợ phải trả thông thường, vì: Các khoản nợ phải trả thường xảy ra, còn khoản nợ tiềm tàng thì chưa chắc chắn xảy ra.

3.3. Hướng dẫn nguyên tắc ghi nhận

(1) Ghi nhận các khoản dự phòng

Chuẩn mực quy định rõ, 1 khoản dự phòng chỉ được ghi nhận khi thỏa mãn 3 điều kiện sau:

  1. Doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ hiện tại (nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ liên đới) do kết quả từ một sự kiện đã xảy ra.
  2. Sự giảm sút về những lợi ích kinh tế có thể xảy ra dẫn đến việc yêu cầu phải thanh toán nghĩa vụ nợ.
  3. Đưa ra được một ước tính đáng tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ đó.

(2) Ghi nhận nghĩa vụ nợ

VAS 18 khẳng định “rất ít trường hợp không thể chắc chắn được rằng liệu doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ hay không?”. Lúc này, 1 sự kiện đã xảy ra được xem là phát sinh nghĩa vụ nợ khi xem xét tất cả các chứng cứ đã có chắc chắn xác định được nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.

Cụ thể:

  • Hầu hết các trường hợp => đều có thể xác định rõ được rằng một sự kiện đã xảy ra có phát sinh một nghĩa vụ nợ hay không?
  • Một số ít trường hợp => không chắc chắn được rằng một số sự kiện xảy ra có dẫn đến một nghĩa vụ nợ hay không?
    • Ví dụ: Trong một vụ xét xử, có thể gây ra tranh luận để xác định rằng những sự kiện cụ thể đã xảy ra hay chưa và có dẫn đến một nghĩa vụ nợ hay không.
    • Lúc này doanh nghiệp phải:
      • Xác định xem liệu có tồn tại nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm hay không thông qua việc xem xét tất cả các chứng cứ đã có, bao gồm cả ý kiến của các chuyên gia.
      • Chứng cứ đưa ra xem xét phải tính đến bất cứ một dấu hiệu bổ sung nào của các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
    • Dựa trên cơ sở của các dấu hiệu đó:
      • Khi chắc chắn xác định được nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì doanh nghiệp phải ghi nhận một khoản dự phòng (nếu thoả mãn các điều kiện ghi nhận).
      • Khi chắc chắn không có một nghĩa vụ nợ nào tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì doanh nghiệp phải trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính một khoản nợ tiềm tàng, trừ khi khả năng giảm sút các lợi ích kinh tế rất khó có thể xảy ra (như quy định tại đoạn 81).

(3) Sự kiện đã xảy ra

Đoạn 14 chuẩn mực nêu rằng:

  • Một sự kiện đã xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ nợ hiện tại được gọi là một sự kiện ràng buộc.
  • Một sự kiện trở thành sự kiện ràng buộc, nếu doanh nghiệp không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thanh toán nghĩa vụ nợ gây ra bởi sự kiện đó. Điều này chỉ xảy ra khi:
    • Khi việc thanh toán nghĩa vụ nợ này do pháp luật bắt buộc.
    • Khi có nghĩa vụ nợ liên đới, khi sự kiện này (có thể là một hoạt động của doanh nghiệp) dẫn đến có ước tính đáng tin cậy để bên thứ ba chắc chắn là doanh nghiệp sẽ thanh toán khoản nợ phải trả đó.

Đối với báo cáo tài chính, chuẩn mực cũng quy định:

  • Báo cáo tài chính phản ánh tại thời điểm kết thúc kỳ; không ghi trước chi phí cho hoạt động tương lai.
  • Chỉ ghi nhận các nghĩa vụ phát sinh từ sự kiện đã xảy rađộc lập với các quyết định tương lai (ví dụ phạt vi phạm môi trường, tháo dỡ thiết bị khi di dời, chi phí tái cơ cấu đã ràng buộc).

Ngoài ra, VAS 18 cũng nêu rõ:

  • Không nhất thiết phải xác định rõ “bên thụ hưởng” nghĩa vụ (có thể là cộng đồng). Quyết định của Ban Giám đốc chưa tạo nghĩa vụ liên đới nếu chưa thông báo cụ thể, đầy đủ cho các đối tượng liên quan trước ngày kết thúc kỳ.
  • Có trường hợp sự kiện chưa làm phát sinh nghĩa vụ ngay mà chỉ phát sinh sau khi có quy định mới hoặc sau khi doanh nghiệp công khai thừa nhận nghĩa vụ (ví dụ thiệt hại môi trường).

(4) Sự giảm sút lợi ích kinh tế có thể xảy ra

Theo chuẩn mực, “điều kiện ghi nhận một khoản nợ là khoản nợ đó phải là khoản nợ hiện tại và có khả năng làm giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán khoản nợ đó.”

=> Theo đó, một khoản nợ phải kèm theo sự giảm sút lợi ích kinh tế có khả năng xảy ra hơn là không xảy ra. Khi không thể xác định nghĩa vụ nợ hiện tại, thì doanh nghiệp phải thuyết minh một khoản nợ tiềm tàng, trừ khi khả năng giảm sút về lợi ích kinh tế là khó có thể xảy ra theo quy định tại đoạn 81 trong chuẩn mực.

Chuẩn mực cũng chỉ ra, khi có nhiều nghĩa vụ tương tự (bảo hành, hợp đồng giống nhau), thì khả năng giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán nghĩa vụ nợ được xem xét thông qua việc xem xét toàn bộ nhóm.

Mặc dù việc giảm sút lợi kinh tế do việc thanh toán từng nghĩa vụ nợ là rất nhỏ, nhưng hoàn toàn có thể làm giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán toàn bộ nhóm nghĩa vụ đó. Trường hợp này, cần ghi nhận một khoản dự phòng nếu thoả mãn các điều kiện ghi nhận khác.

(5) Ước tính đáng tin cậy về nghĩa vụ nợ phải trả

Đoạn 21 – 22 của chuẩn mực khẳng định rằng, ước tínhbộ phận tất yếu của lập báo cáo và không làm giảm độ tin cậy; doanh nghiệp phải có điều kiện đầy đủ để ước tính trước khi ghi nhận dự phòng. Nếu không thể ước tính đáng tin cậy, không ghi nhận mà thuyết minh theo đoạn 81.

(6) Nợ tiềm tàng

VAS 18 khẳng định rằng “doanh nghiệp không được ghi nhận một khoản nợ tiềm tàng”. Thay vào đó, khoản nợ tiềm tàng phải được trình bày theo quy định tại đoạn 81, trừ khi xảy ra giảm sút lợi ích kinh tế của doanh nghiệp.

Điều này có nghĩa là:

  • Nợ tiềm tàng chưa đủ điều kiện để trở thành nghĩa vụ hiện tại nên kế toán không thể ghi nhận vào sổ kế toán, không định khoản chi phí hay nợ phải trả tại thời điểm hiện tại.
  • Dù không ghi nhận trong sổ kế toán, doanh nghiệp vẫn phải trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính (theo đoạn 81 của VAS 18).

Ngoài ra, chuẩn mực (đoạn 25) cũng nêu rõ, khi nhiều bên cùng chịu trách nhiệm cho một khoản nợ (ví dụ liên doanh, đồng bảo lãnh, đồng thi công…) thì:

  • Mỗi doanh nghiệp chỉ ghi nhận phần nghĩa vụ có khả năng gây giảm lợi ích kinh tế cho chính mình.
  • Phần nghĩa vụ thuộc về các bên khác được xem là nợ tiềm tàng, chỉ trình bày thuyết minh, không ghi nhận.

Vì các khoản nợ tiềm tàng thường xảy ra không theo dự tính ban đầu. Do đó, chuẩn mực nếu rõ doanh nghiệp phải phải xem xét thường xuyên các khoản nợ tiềm tàng. => Khi có dấu hiệu mới cho thấy rủi ro đã tăng lên hoặc gần như chắc chắn sẽ xảy ra, khoản nợ tiềm tàng đó phải được chuyển thành dự phòng (ghi nhận vào chi phí). Trừ trường hợp không đưa ra được cách ước tính đáng tin cậy.

(7) Tài sản tiềm tàng

Chuẩn mực (đoạn 27) quy định tài sản tiềm tàngtài sản có thể phát sinh trong tương lai từ một sự kiện đã xảy ra, nhưng chưa chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế.

Vì tính không chắc chắn này, chuẩn mực quy định không được ghi nhận tài sản tiềm tàng trên sổ kế toán hay báo cáo tài chính.

Chuẩn mực cũng nêu rõ nguồn gốc phát sinh tài sản tiềm tàng (đoạn 28):

“Tài sản tiềm tàng phát sinh từ các sự kiện không có trong kế hoạch hoặc chưa được dự tính, dẫn đến khả năng có thể thu được lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp.”

=> Điều này chứng tỏ, tài sản tiềm tàng thường phát sinh bất ngờ và là kết quả của các sự kiên bên ngoài, ví dụ như:

  • Doanh nghiệp đang trong quá trình đòi bồi thường thiệt hại;
  • Doanh nghiệp đang khiếu nại thuế hoặc đòi hoàn thuế;
  • Doanh nghiệp có thể được hoàn tiền bảo hiểm, nhưng còn chờ kết quả xác nhận.

Ngoài ra, chuẩn mực cũng quy định thêm các nguyên tắc về tài sản tiềm tàng:

  • Doanh nghiệp không được ghi nhận tài sản tiềm tàng trên báo cáo tài chính vì điều này có thể dẫn đến việc ghi nhận khoản thu nhập có thể không bao giờ thu được. => Điều này tuân thủ theo nguyên tắc thận trọng, Kế toán chỉ được ghi nhận thu nhập khi đã chắc chắn, không được “ghi trước” lợi ích có khả năng chưa xảy ra.
  • Khi có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai thì doanh nghiệp phải trình bày trong báo cáo tài chính một tài sản tiềm tàng như quy định trong đoạn 84. => Nếu xác suất thu được lợi ích kinh tế là “có thể” (nhưng chưa chắc chắn), doanh nghiệp phải trình bày trong bản thuyết minh của báo cáo tài chính.
  • Tài sản tiềm tàng phải được đánh giá thường xuyên để đảm bảo là đã được phản ánh một cách hợp lý trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu doanh nghiệp gần như chắc chắn thu được lợi ích kinh tế, thì tài sản và khoản thu nhập liên quan phải được ghi nhận trên báo cáo tài chính của kỳ kế toán có khả năng thể xảy ra khoản thu nhập đó theo quy định tại đoạn 84.

3.4. Xác định giá trị

(1) Giá trị ước tính hợp lý

Theo chuẩn mực, giá trị ghi nhận một khoản dự phòng phải là giá trị được ước tính hợp lý nhất về khoản tiền sẽ phải chi để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.

Trong đó, giá trị ước tính hợp lý nhất về khoản chi phí để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại là:

  • Là giá trị mà doanh nghiệp sẽ phải thanh toán nghĩa vụ nợ hoặc chuyển nhượng cho bên thứ ba tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
  • Mặc dù trên thực tế khó thể bỏ ra chi phí rất cao để lập tức thanh toán/chuyển nhượng.
  • Tuy nhiên, việc “suy tính” theo cách này giúp ước tính đáng tin cậy nhất về chi phí cần dùng để tất toán nghĩa vụ tại ngày kết thúc kỳ.

Chuẩn mực cũng quy định rõ cách ước tính về kết quả và ảnh hưởng tài chính đều được xác định thông qua các nguồn:

  • Đánh giá của Ban giám đốc doanh nghiệp.
  • Được bổ sung thông qua kinh nghiệm từ các hoạt động tương tự và các bản báo cáo của các chuyên gia độc lập.
  • Các căn cứ có thể dựa trên bao gồm cả các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm.

Đối với trường hợp nghĩa vụ gồm nhiều khoản mục tương tự, chuẩn mực (đoạn 35) quy định:

  • Khi dự phòng liên quan nhiều khoản mục, phải tính theo toàn bộ các kết quả có thể và xác suất xảy ra của từng kết quả (cách “giá trị ước tính”).
  • Nếu các kết quả liên tục trong một khoảng và có khả năng như nhau, chọn điểm giữa của khoảng đó làm giá trị ước tính.

Ví dụ: Một doanh nghiệp bán hàng cho khách hàng có kèm giấy bảo hành sửa chữa các hỏng hóc do lỗi sản xuất được phát hiện trong vòng sáu tháng sau khi mua:

  • Nếu tất cả các sản phẩm bán ra đều có lỗi hỏng hóc nhỏ, thì tổng chi phí sửa chữa là 1 triệu đồng.
  • Nếu tất cả các sản phẩm bán ra đều có lỗi hỏng hóc lớn, thì tổng chi phí sửa chữa là 4 triệu đồng.
  • Kinh nghiệm cho thấy trong năm tới, 75% hàng hóa bán ra không bị hỏng hóc, 20% hàng hóa bán ra sẽ hỏng hóc nhỏ và 5% hàng hóa bán ra sẽ có hỏng hóc lớn.

=> Chi phí ước tính sẽ là: (75% x 0) + (20% x 1 triệu) + (5% x 4 triệu) = 0,4 triệu đồng.

Đối với trường hợp đánh giá từng nghĩa vụ một cách riêng rẽ:

  • Khi đánh giá từng nghĩa vụ riêng rẽ, kết quả có khả năng xảy ra nhất thường là giá trị ước tính hợp lý nhất để ghi nhận.
  • Tuy nhiên, vẫn phải xem xét các kết quả khác. Nếu các kết quả khác đa số lớn hơn hoặc đa số nhỏ hơn kết quả “khả năng cao nhất”, thì giá trị đáng tin cậy nhất chính là mức cao hơn/thấp hơn đó. Ví dụ: buộc sửa chữa một thiết bị lớn, khả năng cao nhất là 1 triệu đồng sửa lần đầu; nhưng nếu có khả năng phải sửa thêm lần hai, lần ba, cần lập dự phòng lớn hơn 1 triệu đồng để phản ánh trung thực nghĩa vụ.

(2) Rủi ro và các yếu tố không chắc chắn

Theo chuẩn mực (đoạn 38), khi xác định giá trị ước tính hợp lý nhất của khoản dự phòng, doanh nghiệp phải xét đến rủi ro và các yếu tố không chắc chắn bao quanh sự kiện/nghĩa vụ.

Rủi ro thể hiện sự giảm sút kết quả và việc điều chỉnh rủi ro có thể làm tăng giá trị các khoản nợ đã được ghi nhận. => Do đó, chuẩn mực quy định doanh nghiệp phải thận trọng khi đưa ra những đánh giá trong các điều kiện không chắc chắn để không làm sai lệch tăng thu nhập hay tài sản và cũng không làm sai lệch giảm chi phí và các khoản nợ. Doanh nghiệp cần tránh đánh giá trùng lặp rủi ro khiến dự phòng bị đội lên.

Việc thuyết minh các yếu tố không chắc chắn liên quan đến giá trị khoản chi trả thuộc đoạn 80(b).

(3) Giá trị hiện tại

VAS 18 (đoạn 41) nêu rõ: “Nếu ảnh hưởng về giá trị thời gian của tiền là trọng yếu, thì giá trị của một khoản dự phòng cần được xác định là giá trị hiện tại của khoản chi phí dự tính để thanh toán nghĩa vụ nợ.”

=> Đoạn này, chuẩn mực đã trả lời câu hỏi khi nào phải chiết khấu về giá trị hiện tại? Bởi vì, các khoản chi xảy ra sớm sau ngày kết thúc kỳ có giá trị thực cao hơn so với các khoản chi xảy ra muộn. Vì vậy, phải chiết khấu khi yếu tố thời gian là trọng yếu.

Chuẩn mực cũng quy định cách chọn tỷ lệ chiết khấu đúng chuẩn:

  • Phải dùng tỷ lệ trước thuế, phản ánh ước tính thị trường hiện tại về giá trị thời gian của tiền và rủi ro đặc thù của khoản nợ.
  • Tỷ lệ chiết khấu không phản ánh các rủi ro đã tính trong dòng tiền ước tính tương lai. Nói cách khác, nếu rủi ro đã nằm trong dòng tiền, thì không đưa thêm rủi ro đó vào tỷ lệ chiết khấu.

(4) Các sự kiện xảy ra trong tương lai

Chuẩn mực quy định rằng, “những sự kiện xảy ra trong tương lai có thể ảnh hưởng đến giá trị đã ước tính để thanh toán nghĩa vụ nợ thì phải được phản ánh vào giá trị của khoản dự phòng khi có đủ dấu hiệu cho thấy các sự kiện đó sẽ xảy ra.”

Những sự kiện  sẽ xảy ra trong tương lai có thể rất quan trọng khi đánh giá các khoản dự phòng.

Ví dụ, doanh nghiệp có thể cho rằng chi phí thanh lý tài sản vào cuối thời gian sử dụng của tài sản sẽ giảm do những thay đổi về công nghệ trong tương lai:

  • Giá trị được ghi nhận đã phản ánh cách ước tính hợp lý của các nhà nghiên cứu có trình độ kỹ thuật và khách quan có tính đến các bằng chứng về công nghệ tại thời điểm thanh lý.
  • Do vậy, việc giảm giá trị dự phòng bằng một khoản tương đương với chi phí tiết kiệm được là hợp lý khi các khoản chi phí này được cắt giảm do kinh nghiệm đã thu được khi áp dụng công nghệ hiện có của hoạt động thanh lý có nhiều phức tạp hoặc có qui mô lớn hơn so với hoạt động đã tiến hành trước đây.
  • Tuy nhiên, doanh nghiệp khó có thể đoán trước được sự phát triển của kỹ thuật công nghệ mới áp dụng cho việc thanh lý tài sản, trừ khi có đầy đủ bằng chứng khách quan.

Ngoài ra, chuẩn mực cũng quy định rằng: Khi đo lường nghĩa vụ, phải xét ảnh hưởng có thể xảy ra của quy định mới nếu có đủ bằng chứng khách quan cho thấy chắc chắn sẽ được thông qua và áp dụng đúng thời điểm. Yêu cầu bằng chứng gồm:

  • (i) nội dung quy định sẽ áp dụng.
  • (ii) mức độ chắc chắn thông qua.
  • (iii) thời điểm áp dụng phù hợp.
  • Có trường hợp chỉ khi được ban hành mới đủ bằng chứng để đưa vào ước tính.

(5) Thanh lý tài sản dự tính

Chuẩn mực (đoạn 47) quy định rằng: “Lãi từ hoạt động thanh lý tài sản dự tính không được xét đến khi xác định giá trị của khoản dự phòng.”

Cụ thể, doanh nghiệp không được tính các khoản lãi từ hoạt động thanh lý tài sản khi xác định giá trị khoản dự phòng, ngay cả khi hoạt động thanh lý dự tính gắn liền với sự kiện làm phát sinh khoản dự phòng đó.

Thay vào đó, doanh nghiệp phải ghi nhận các khoản lãi từ hoạt động thanh lý tài sản đã dự tính tại thời điểm quy định trong các Chuẩn mực kế toán liên quan.

(6) Các khoản bồi hoàn

Về nguyên tắc ghi nhận bồi hoàn, chuẩn mực (đoạn 49) quy định như sau: Chỉ khi chắc chắn sẽ nhận được bồi hoàn từ bên thứ ba thì mới được ghi nhận; ghi nhận như một tài sản riêng biệt và không vượt quá giá trị khoản dự phòng liên quan.

Khi trình bày trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, chi phí liên quan đến dự phòng có thể được trình bày sau khi trừ khoản bồi hoàn đã ghi nhận.

Trong một số trường hợp, doanh nghiệp có thể tìm bên thứ ba để thanh toán một phần hay toàn bộ chi phí cho khoản dự phòng (ví dụ: bảo hiểm, điều khoản bồi thường, bảo hành của nhà cung cấp). Bên thứ ba có thể trả trực tiếp hoặc hoàn trả lại các khoản doanh nghiệp đã thanh toán.

Trong trường hợp bên thứ 3 không trả lại các khoản doanh nghiệp đã thanh toán:

  • Tình huống 1 – Doanh nghiệp vẫn chịu nghĩa vụ đầy đủ (đa số trường hợp):
    • Nếu bên thứ ba không có khả năng bồi hoàn, doanh nghiệp vẫn phải chịu và thanh toán nghĩa vụ → ghi dự phòng toàn bộ; đồng thời chỉ ghi tài sản bồi hoàn khi chắc chắn sẽ nhận được nếu doanh nghiệp thực trả.
  • Tình huống 2 – Doanh nghiệp không phải chịu chi nếu bên thứ ba không thanh toán:
    • Nếu bản chất thỏa thuận làm cho doanh nghiệp không gánh chi phí khi bên thứ ba không chi trả, thì không đưa những khoản chi đó vào dự phòng (vì doanh nghiệp không có nghĩa vụ hiện tại phải chi).

Ngoài ra, theo quy định trong đoạn 25 của chuẩn mực, một khoản nợ khi doanh nghiệp phải chịu nghĩa vụ pháp lý chung hoặc riêng sẽ được ghi nhận là nợ tiềm tàng trong phạm vi dự tính nghĩa vụ sẽ được bên thứ ba thanh toán.

(7) Thay đổi các khoản dự phòng

Theo quy định của chuẩn mực, các khoản dự phòng:

  • Phải được xem xét lại và điều chỉnh tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm để phản ánh ước tính hợp lý nhất ở thời điểm hiện tại.
  • Trong trường hợp, doanh nghiệp chắc chắn không phải chịu sự giảm sút về lợi ích kinh tế do không phải chi trả nghĩa vụ nợ thì khoản dự phòng đó phải được hoàn nhập.

Khi sử dụng dụng phương pháp chiết khấu, giá trị ghi sổ của một khoản dự phòng tăng lên trong mỗi kỳ kế toán năm để phản ánh ảnh hưởng của yếu tố thời gian. Phần giá trị tăng lên này phải được ghi nhận là chi phí đi vay.

(8) Sử dụng các khoản dự phòng

Theo, quy định của chuẩn mực, việc sử dụng các khoản dự phòng phải được thực hiện như sau:

  • Chỉ nên sử dụng một khoản dự phòng cho những chi phí mà khoản dự phòng đó đã được lập từ ban đầu.
  • Chỉ những khoản chi phí liên quan đến khoản dự phòng đã được lập ban đầu mới được bù đắp bằng khoản dự phòng đó. Việc sử dụng khoản dự phòng cho các chi phí không liên quan đến khoản dự phòng đó hoặc cho các chi phí liên quan đến khoản dự phòng được lập cho mục đích khác có thể không thể hiện ảnh hưởng của hai sự kiện khác nhau.

3.5. Áp dụng nguyên tắc ghi nhận và xác định giá trị

(1) Các khoản lỗ hoạt động trong tương lai

Khi áp dụng nguyên tắc ghi nhận và xác định giá trị, với các khoản lỗ hoạt động tương lai, doanh nghiệp thực hiện như sau:

  • Không được ghi nhận khoản dự phòng cho các khoản lỗ hoạt động trong tương lai.
  • Khoản lỗ hoạt động trong tương lai là khoản không thoả mãn định nghĩa về một khoản nợ phải trả quy định trong đoạn 07 và điều kiện ghi nhận các khoản dự phòng ở đoạn 11.
  • Mỗi ước tính về khoản lỗ hoạt động xảy ra trong tương lai đều là dấu hiệu về sự tổn thất của một số tài sản dùng trong kinh doanh. Doanh nghiệp phải tiến hành kiểm tra việc tổn thất đối với những tài sản này.

(2) Các hợp đồng rủi ro lớn

Đối với trường hợp doanh nghiệp có hợp đồng rủi ro lớn, thì doanh nghiệp phải xem nghĩa vụ nợ hiện tại theo hợp đồng được ghi nhận và đánh giá như một khoản dự phòng.

Đối với trường hợp nhiều hợp đồng có thể bị huỷ bỏ mà không phải thanh toán bồi thường (không phát sinh nghĩa vụ nợ) thì:

  • Trường hợp các hợp đồng có qui định rõ quyền và nghĩa vụ đối với từng bên tham gia ký kết hợp đồng: khi phát sinh sự kiện rủi ro, hợp đồng đó sẽ thuộc phạm vi chi phối của chuẩn mực này và khoản nợ phải trả phát sinh được ghi nhận.
  • Trường hợp những hợp đồng thông thường mà không có rủi ro lớn: thì không thuộc phạm vi áp dụng của chuẩn mực này.

Để hiểu rõ hơn, chuẩn mực đã định nghĩa khái niệm “hợp đồng có rủi ro lớn” là:

  • Là hợp đồng có chi phí bắt buộc phải trả cho các nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vượt quá lợi ích kinh tế dự tính thu được từ hợp đồng đó.
  • Các chi phí bắt buộc phải trả theo điều khoản của hợp đồng phản ánh chi phí thấp nhất nếu từ bỏ hợp đồng.
  • Mức chi phí đó sẽ thấp hơn mức chi phí để thực hiện hợp đồng, kể cả các khoản bồi thường hoặc đền bù phát sinh do việc không thực hiện được hợp đồng.

Đặc biệt, trước khi lập một khoản dự phòng riêng biệt cho một hợp đồng có rủi ro lớn, doanh nghiệp phải ghi nhận bất kỳ sự giảm sút giá trị nào của tài sản có liên quan đến hợp đồng đó.

(3) Tái cơ cấu doanh nghiệp

Chuẩn mực (đoạn 67) chỉ rõ rằng: ” Khoản dự phòng cho chi phí tái cơ cấu doanh nghiệp chỉ được ghi nhận khi các điều kiện chung đối với khoản dự phòng như quy định trong đoạn 11 được thoả mãn. Các đoạn 69 – 78 chỉ rõ làm thế nào để áp dụng các điều kiện chung cho hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp.”

Trong đó, các sự kiện được coi nằm trong định nghĩa về “tái cơ cấu doanh nghiệp” gồm:

  • Bán hoặc chấm dứt một dây chuyền sản xuất sản phẩm.
  • Đóng cửa cơ sở kinh doanh ở một địa phương, một quốc gia khác hoặc chuyển đổi hoạt động kinh doanh từ địa phương này, quốc gia này sang một địa phương hoặc một quốc gia khác.
  • Thay đổi cơ cấu bộ máy quản lý, ví dụ loại bỏ một cấp quản lý.
  • Hoạt động tái cơ cấu cơ bản sẽ gây ra tác động lớn đến bản chất và mục tiêu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Vậy khi nào hình thành nghĩa vụ liên đới do tái cơ cấu? Nghĩa vụ liên đới chỉ phát sinh khi:

  • a) Có kế hoạch chính thức, cụ thể, nêu ít nhất 5 nội dung:
    • (i) phạm vi thay đổi hoạt động.
    • (ii) các vị trí quan trọng bị ảnh hưởng.
    • (iii) vị trí/nhiệm vụ/số lượng nhân viên dự kiến được bồi thường.
    • (iv) các khoản chi phải trả.
    • (v) thời điểm thực hiện kế hoạch.
  • (b) Doanh nghiệp đã lập danh sách chủ thể chắc chắn bị ảnh hưởng và bắt đầu thực hiện kế hoạch hoặc đã thông báo các vấn đề quan trọng đến các chủ thể bị ảnh hưởng.

Chuẩn mực cũng nêu rõ, bằng chứng cho thấy doanh nghiệp đã tiến hành kế hoạch tái cơ cấu: tháo dỡ nhà xưởng, bán tài sản, thông báo công khai về các vấn đề quan trọng của kế hoạch. Khi thông báo đủ chi tiết, sẽ tạo nghĩa vụ nợ pháp lý (khách hàng/nhà cung cấp/nhân viên có thể kỳ vọng doanh nghiệp sẽ thực hiện).

Để kế hoạch có đủ chi tiết liên quan đến nghĩa vụ nợ khi thông báo đến những đối tượng bị ảnh hưởng, thì phải lập và thực hiện kế hoạch càng sớm càng tốt, phải hoàn tất kế hoạch trong khoảng thời gian dự tính. Nếu doanh nghiệp dự tính vẫn còn một khoảng thời gian dài trước khi tiến hành tái cơ cấu hoặc quá trình tái cơ cấu phải mất một thời gian dài bất hợp lý, thì không thể chắc chắn là kế hoạch sẽ được thực hiện đúng thời gian cho phép.

Nghĩa vụ nợ liên đới không chỉ được tạo ra từ quyết định của Ban Giám đốc. Nghĩa vụ nợ liên đới có thể là kết quả của các sự kiện đã xảy ra: Ví dụ, thoả thuận với đại diện của người làm công về các khoản thanh toán khi họ thôi việc, hoặc thoả thuận với người mua khi nhượng bán một bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp. Một khi đã đạt được sự chấp thuận có thể đã được kết luận chỉ chờ chấp thuận của Hội đồng quản trị và được thông báo đến chủ thể đối tác thì lúc đó doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện tái cơ cấu nếu thoả mãn các điều kiện quy định tại đoạn 68.

Nghĩa vụ liên đới có thể phát sinh từ sự kiện đã xảy ra như: thỏa thuận với đại diện người lao động về trợ cấp thôi việc, hoặc thỏa thuận với người mua khi nhượng bán bộ phận. Khi đã đạt thỏa thuận (dù còn chờ Hội đồng quản trị phê duyệt hình thức) và đã thông báo cho đối tác, nếu đáp ứng đ.68 thì hình thành nghĩa vụ.

Với trường hợp nhượng bán bộ phận kinh doanh:

  • Chưa có nghĩa vụ nợ cho đến khi ký hợp đồng nhượng bán hiện tại (cam kết).
  • Thông báo công khai kế hoạch bán chưa là cam kết; đến khi xác định người mua và ký hợp đồng ràng buộc mới được coi là cam kết. Trong thời gian chờ, doanh nghiệp vẫn có thể thay đổi hoạt động nếu không tìm được người mua phù hợp. Nếu nhượng bán chỉ là một phần của tái cơ cấu, phải xem xét tổn thất tài sản và nghĩa vụ phát sinh ở phần khác trước khi có hợp đồng ràng buộc.

Về phạm vi chi phí được đưa vào dự phòng tái cơ cấu. Chuẩn mực quy định chỉ đưa vào chi phí trực tiếp của tái cơ cấu, đồng thời thỏa cả hai điều kiện:

  • (a) Cần phải có cho hoạt động tái cơ cấu.
  • (b) Không liên quan đến hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp.

Phạm vi chi phí được đưa vào dự phòng tái cơ cấu không bao gồm (vì là chi của hoạt động tương lai):

  • Đào tạo/thuyên chuyển nhân viên.
  • Tiếp thị.
  • Đầu tư hệ thống mới/mạng lưới phân phối.

=> Các khoản này chi phí này không phải nợ phải trả tái cơ cấu tại ngày kết thúc kỳ và phải hạch toán theo nguyên tắc chi phí thông thường.

Các khoản lỗ hoạt động tương lai đến ngày tái cơ cấu không được đưa vào dự phòng, trừ khi chúng thuộc hợp đồng có rủi ro lớn theo đ.07 (chi phí không tránh được vượt lợi ích dự tính).

Lãi dự tính từ thanh lý tài sản (dù là một phần tái cơ cấu) không được tính trừ khi đo lường dự phòng; khoản lãi chỉ được ghi nhận theo chuẩn mực liên quan tại thời điểm phù hợp.

3.6. Hướng dẫn trình bày trên báo cáo tài chính

Theo chuẩn mực quy định, doanh nghiệp phải trình bày trong báo cáo tài chính từng loại dự phòng theo các khoản mục:

  • a) Số dư đầu kỳ và cuối kỳ.
  • b) Số dự phòng tăng do các khoản dự phòng trích lập bổ sung trong kỳ, kể cả việc tăng các khoản dự phòng hiện có.
  • c) Số dự phòng giảm trong kỳ do phát sinh các khoản chi phí liên quan đến khoản dự phòng đó đã được lập từ ban đầu.
  • d) Số dự phòng không sử dụng đến được ghi giảm (hoàn nhập) trong kỳ.
  • e) Số dự phòng tăng trong kỳ do giá trị hiện tại của khoản dự phòng tăng lên theo thời gian và do ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ lệ chiết khấu dòng tiền.

Doanh nghiệp không phải trình bày thông tin so sánh về các khoản dự phòng.

Đối với mỗi loại dự phòng có giá trị trọng yếu, doanh nghiệp phải trình bày các thông tin sau:

  • a) Tóm tắt bản chất của nghĩa vụ nợ và thời gian chi trả dự tính;
  • b) Dấu hiệu cho thấy có sự không chắc chắn về giá trị hoặc thời gian của các khoản chi trả. Khi cần đưa ra thông tin đầy đủ thì doanh nghiệp phải trình bày những giả định chính liên quan đến các sự kiện xảy ra trong tương lai, như đã quy định trong đoạn 44; và
  • c) Giá trị của khoản bồi hoàn dự tính nhận được nếu giá trị của tài sản đã được ghi nhận liên quan đến khoản bồi hoàn dự tính đó.

Về các khoản nợ tiềm tàng, trừ khi khả năng phải chi trả là khó có thể xảy ra, phải thuyết minh bản chất nợ tiềm tàng tại ngày kết thúc kỳ, kèm:

  • Ước tính ảnh hưởng tài chính (đo theo nguyên tắc đoạn 32–48);
  • Dấu hiệu không chắc chắn về giá trị hoặc thời điểm có thể chi trả;
  • Khả năng nhận bồi hoàn (nếu có).

Doanh nghiệp có thể gộp các khoản dự phòng hoặc nợ tiềm tàng cùng bản chất thành một loại để trình bày, miễn vẫn đáp ứng yêu cầu thông tin của đoạn 80(a),(b) và 81(a),(b). Ví dụ: có thể nhóm chung các dự phòng bảo hành của nhiều dòng sản phẩm, nhưng không được nhóm dự phòng bảo hành với khoản phải trả liên quan đến vụ kiện (khác bản chất).

Với trường hợp dự phòng và nợ tiềm tàng cùng xuất phát từ một tình huống thì doanh nghiệp phải thuyết minh o đoạn 79–81 và chỉ rõ mối liên hệ giữa chúng (để người đọc hiểu phần đã ghi nhận là dự phòng và phần còn lại chỉ là nợ tiềm tàng).

Về tài sản tiềm tàng:

  • Khi có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai, phải tóm tắt bản chất tài sản tiềm tàng tại ngày kết thúc kỳ và, khi có thể, ước tính ảnh hưởng tài chính theo nguyên tắc đo lường ở đoạn 32–48 (lưu ý: vẫn không được ghi nhận vào sổ).
  • Cách trình bày phải tránh tạo dấu hiệu sai lệch về khả năng phát sinh thu nhập (không “thổi phồng” khả năng nhận tiền).
  • Nếu không thể trình bày thông tin theo yêu cầu ở đoạn 81 hoặc 84, phải nêu rõ lý do trong Bản thuyết minh.

Trong trường hợp việc cung cấp một phần hoặc toàn bộ các thông tin theo đoạn 79–84 có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến vị thế của doanh nghiệp trong tranh chấp (ví dụ đang kiện tụng), doanh nghiệp được phép không trình bày chi tiết, nhưng phải nêu bản chất chung của vấn đề và lý do không cung cấp thông tin.

4. So sánh VAS 18 với IAS 37

Cả VAS 18 và IAS 37 đều là chuẩn mực kế toán hướng dẫn về dự phòng, tài sản, và nợ tiềm tàng. Trong đó, VAS 18 là chuẩn mực kế toán áp dụng tại Việt Nam, còn IAS 37 là chuẩn mực kế toán quốc tế. Vậy hai chuẩn mực này có sự khác nhau thế nào?

Tiêu chí IAS 37 VAS 18
Phạm vi áp dụng (Hợp đồng phải thi hành) Quy định rằng chuẩn mực này không áp dụng cho các hợp đồng phải thi hành – là các hợp đồng mà không bên nào thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào của mình hoặc cả hai bên đều đã thực hiện một phần nghĩa vụ của mình với mức độ bằng nhau – trừ khi các hợp đồng này có rủi ro lớn. Không đề cập đến hợp đồng phải thi hành.
Tiêu chí ghi nhận nghĩa vụ hiện tại Trong trường hợp không xác định rõ liệu có tồn tại một nghĩa vụ hiện tại hay không, một sự kiện quá khứ được cho là làm phát sinh nghĩa vụ hiện tại nếu, xét đến tất cả các bằng chứng có sẵn, khả năng tồn tại nghĩa vụ hiện tại là lớn hơn khả năng không có. Tiêu chí ghi nhận đối với sự kiện như vậy được dựa trên một ngưỡng “chắc chắn”. Điều này có nghĩa là cách tiếp cận của VAS 18 có thể yêu cầu điều kiện chặt chẽ hơn so với tiêu chuẩn “nhiều khả năng” trong IAS 37.
Các khoản dự phòng dùng để điều chỉnh giá trị ghi sổ của tài sản Giải thích rằng khi các khoản dự phòng được sử dụng để điều chỉnh giá trị ghi sổ của tài sản (ví dụ: khấu hao, sự sụt giảm giá trị tài sản và nợ khó đòi), các khoản này sẽ không được giải quyết trong IAS 37. Chuẩn mực này không ngăn cấm và cũng không yêu cầu vốn hóa các giá vốn được ghi nhận khi trích lập dự phòng. Không quy định hoặc đề cập tới vấn đề này.
Sự sụt giảm giá trị của tài sản Yêu cầu doanh nghiệp tiến hành kiểm tra sự sụt giảm giá trị đối với các tài sản dự kiến phải chịu các tổn thất khi hoạt động trong tương lai hoặc chuyên phục vụ các hợp đồng có rủi ro lớn. Chuẩn mực IAS 36 “Sự sụt giảm giá trị của tài sản, điều chỉnh và hạch toán tổn thất do sụt giảm giá trị của tài sản” là chuẩn mực áp dụng cho trường hợp này. Yêu cầu doanh nghiệp tiến hành kiểm tra sự sụt giảm giá trị đối với các tài sản dự kiến phải chịu các tổn thất khi hoạt động trong tương lai hoặc chuyên phục vụ các hợp đồng có rủi ro lớn. Tuy nhiên, không có chuẩn mực VAS nào tương đương với chuẩn mực IAS 36.
Ghi nhận các khoản bồi hoàn Các khoản bồi hoàn phải được ghi nhận là một tài sản riêng biệt khi có nhiều khả năng doanh nghiệp nhận được khoản bồi hoàn (giá trị không được vượt quá khoản dự phòng). Các khoản bồi hoàn phải được ghi nhận như một tài sản riêng biệt khi doanh nghiệp chắc chắn sẽ nhận được khoản bồi hoàn đó (giá trị không được vượt quá khoản dự phòng).
Xử lý trong thuyết minh BCTC Yêu cầu tiết lộ chi tiết về các dự phòng, nợ tiềm tàng và tài sản tiềm tàng với mức độ minh bạch cao để các bên liên quan hiểu rõ rủi ro. Có sự khác biệt về mức độ chi tiết và minh bạch. Các quy định thường tập trung vào sự đơn giản và linh hoạt, có thể dẫn đến mức độ minh bạch thấp hơn so với IAS 37.

Kết luận:

VAS 18 là chuẩn mực đặc biệt quan trọng vì giúp doanh nghiệp phản ánh trung thực các rủi ro và nghĩa vụ nợ chưa chắc chắn, đảm bảo tính thận trọng và minh bạch trong báo cáo tài chính.

Việc thực hiện chuẩn mực đòi hỏi kế toán viên phải hiểu rõ bản chất của từng nghĩa vụ, đánh giá rủi ro và xác định ước tính hợp lý, đồng thời thường xuyên rà soát và cập nhật các khoản dự phòng.

Trong thực tế, việc áp dụng đúng VAS 18 giúp doanh nghiệp:

  • Tránh ghi nhận sai lệch lợi nhuận;
  • Tăng độ tin cậy của báo cáo tài chính;
  • Giảm rủi ro pháp lý và tuân thủ đúng quy định của Bộ Tài chính.

Ghi chú:

Toàn bộ nội dung trên được xây dựng dựa vào Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 18 – Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng ban hành kèm Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC ngày 28/12/2005 của Bộ Tài chính.

Doanh nghiệp khi áp dụng cần căn cứ vào các văn bản hướng dẫn chi tiết về chế độ kế toán hiện hành để đảm bảo phù hợp với quy định cập nhật mới nhất.